Download PHÂN TÍCH QUAN NIỆM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC. and more High school final essays Political Philosophy in PDF only on Docsity!
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
----- 0O0 -----
BÀI TẬP LỚN
TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI SỐ 3:
PHÂN TÍCH QUAN NIỆM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC. LIÊN HỆ VỚI THỰC TIỄN.
Họ, tên SV: Trần Lan Anh Mã sinh viên: 11220607 Lớp: Triết học Mác – Lenin (122) – 30 Khóa: K GĐ: [D 204] Hà Nội – 11/
MỤC LỤC
- MỞ ĐẦU …………………………………………………………………………...
- NỘI DUNG ………………………………………………………………………... - 1. Quan niệm duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. - 1.1 Vật chất ………………………………………………………………… - 1.1.1 Định nghĩa……………………………………………………….. - 1.1.2 Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất………………... - a) Phương thức tồn tại của vật chất…………………………… - b) Hình thức tồn tại của vật chất………………………………. - c) Tính thống vật chất của thế giới…………………………….. - 1.2 Ý thức …………………………………………………………………... - 1.2.1 Nguồn gốc của ý thức……………………………………………. - 1.2.2 Bản chất của ý thức……………………………………………… - 1.2.3 Kết cấu của ý thức……………………………………………….. - 1.3 Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức …………………………………. - 1.3.1 Vật chất quyết định ý thức……………………………………… - a) Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức…………...…….. - b) Vật chất quyết định nội dung của ý thức…………………… - c) Vật chất quyết định bản chất của ý thức………………….. - t hức……………………………………………………….. d) Vật chất quyết định đến sự vận động và phát triền của ý - 1.3.2 Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất.. - 2. Ý nghĩa phương pháp luận ………………………………………………. - 3. Liên hệ thực tiễn …………………………………………………………..
- KẾT LUẬN ………………………………………………………………………
- TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………….
NỘI DUNG
1. QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA
VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
1.1 Vật chất 1.1.1 Định nghĩa Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc và khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên; kế thừa những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen. Vào năm 1908, trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” V.I.Lênin dã nêu ra định nghĩa khoa học và hoàn chỉnh về vật chất: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. Đây là một dịnh nghĩa hoàn chỉnh về vật chất mà cho đến hiện nay các nhà khoa học hiện đại coi là một định nghĩa kinh điển. Nó là kết quả của việc tổng kết từ những thành tựu tự nhiên của khoa học, phê phán những quan niệm duy tâm, siêu hình về phạm trù vật chất. Từ định nghĩa về vật chất của V.I.Lenin, ta có thể nhận định được các nội dung cơ bản sau:
- Thứ nhất, vật chất là phạm trù triết học. Thông thường chúng ta nhắc đến và hình dung về vật chất như một vật dụng, một tài sản của con người… Tuy nhiên, vật chất trong định nghĩa vật chất của Lênin là kết quả của sự khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của các sự vật, hiện tượng nên nó phản ánh cái chung, vô hạn, vô tận, không sinh ra, không mất đi; do đó không thể đồng nhất vật chất với một hay một số dạng biểu hiện cụ thể của vật chất.
- Thứ hai, vật chất dùng để chỉ thực tại khách quan. Vật chất tồn tại khách quan trong hiện thực, nằm bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức của con người. “Tồn tại khách quan” là thuộc tính cơ bản của vật chất, là tiêu chuẩn để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất. Con người có nhận thức được hay không nhận thức được vật chất thì vật chất vẫn tồn tại.
- Thứ ba, vật chất được đem lại cho con người cảm giác, được cảm giác của chúng ta ghép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác. Có thể hiểu rằng vật chất là cái có thể gây nên cảm giác ở con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động đến giác quan của con người; ý thức của con người là sự phản ánh đối với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh. 1.1.2 Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất a) Phương thức tồn tại của vật chất Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng thì vận động là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất; do đó, nó tồn tại vĩnh viễn, không thể tạo ra và không bị tiêu diệt.
- Nguồn gốc của vận động nằm trong ngay bản thân sự vật, bản thân vật chất => Vận động của vật chất là tự vận động. Hình thức vận động của vật chất rất đa dạng. Dựa vào các thành tựu khoa học của thời đại mình, Ph. Ăngghen đã chia vận đọng của vật chất thành 5 hình thức cơ bản:
- Vận động cơ giới là hình thức vận động đơn giản nhất, bao gồm những sự biến đổi về vị trí của các vật thể trong không gian.
- Vận động vật lý là những sự biến đổi của nhiệt, điện, từ trường, các hạt cơ bản, ...
- Vận động hoá là những sự biến đổi của các chất vô cơ, hữu cơ trong các quá trình phản ứng hoá hợp và phân giải của chúng.
- Vận động sinh vật là các quá trình biến đổi của các chất đặc trưng cho sự sống. VD: Sự lớn lên của các cơ thể sống nhờ quá trình không ngừng trao đổi chất của cơ thể sống và môi trường, sự biến đổi của cấu trúc gen,
- Một là, thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người.
- Hai là, mọi sự vật hiện tượng đều có mối liên hệ vật chất thống nhất với nhau, cùng chịu sự chi phối của những quy luật khách quan.
- Ba là, thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, không do ai sinh ra và cũng không tự mất đi. Mọi sự vật của thế giới luôn vận động và chuyển hóa lẫn nhau. Ph. Ăngghen kết luận: “Tính thống nhất thực sự của thế giới là tính vật chất của nó, và tính vật chất này được chứng minh không phải bằng vài ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà bằng sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên”. 1.2 Ý thức 1.2.1 Nguồn gốc của ý thức Theo quan điểm duy vật biện chứng, ta có thể thấy: Ý thức xuất hiện là kết quả của quá trình tiến hóa lâu dài của tự nhiên và lịch sử loài người.
- Nguồn gốc tự nhiên (điều kiện cần) được thể hiện qua sự hình thành của bộ óc con người và hoạt động của bộ óc đó cùng với mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan; trong đó, thế giới khách quan tác động đến bộ óc con người tạo ra quá trình phản ánh sáng tạo, năng động.
- Ý thức là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người, là chức năng của bộ óc, là kết quả hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc. Bộ óc càng hoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng có hiệu quả, ý thức của con người càng phong phú và sâu sắc. Điều này lý giải tại sao quá trình tiến hóa của loài người cũng là quá trình phát triển năng lực của nhận thức, của tư duy và tại sao đời sống tinh thần của con người bị rối loạn khi sinh lý thần kinh của con người không bình thường do bị tổn thương bộ óc.
- Tất cả các dạng vật chất đều có thuộc tính phản ánh. Các thuộc tính phản ánh này phát triển từ thấp đến cao tùy theo sự phát triển của thế giới vật chất. Nếu không có thuộc tính phản ánh này thì không thể có ý thức.
- Nguồn gốc xã hội (điều kiện đủ):
- Lao động đã liên kết những con người trong xã hội lại với nhau, lập thành các quan hệ xã hội trong mối quan hệ khách quan, tất yếu. Từ đó nảy sinh ra ngôn ngữ và nó trở thành cái vỏ vật chất của tư duy, phương thức thể hiện ý thức. Từ những điều trên có thể thấy, ý thức xuất hiện cần đủ 4 yếu tố: hiện thực khách quan, bộ óc con người, lao động và ngôn ngữ. 1.2.2 Bản chất của ý thức Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng cho ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ não con người thông qua hoạt động thực tiễn vì vậy mà bản chất của ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Và chính vì vậy, ý thức sẽ phản ánh thực tế khách quan thế giới của con người.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Điều đó có nghĩa là những nội dung mà ý thức đều xuất phát từ thực tiễn, những yếu tố xuất hiện trong thực tiễn sẽ là cơ sở để ý thức được hình thành ;
- Sự phán ánh ý thức là sáng tạo, vì nó bao giờ cũng do nhu cầu thực tiễn cần sử dụng mà bắt buộc phải tạo ra những giá trị, phát minh thiết kế hiện đại và hữu ích hơn để đáp ứng cho nhu cầu thực tế của xã hội.
- Phản ánh ý thức là sự sáng tạo, vì phản ánh đó bao giớ cũng dựa trên hoạt động thực tiễn và là sản phẩm của các quan hệ xã hội. Là sản phẩm của các quan hệ xã hội, bản chất ý thức có tính xã hội. Vậy, bản chất của ý thức chính là sự phản ánh chân thật và đầy đủ nhất của ý thức. Hành vi con người cũng chính là yếu tố thể hiện bản chất cúa ý thức. Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội. 1.2.3 Kết cấu của ý thức Theo các yếu tố hợp thành thì ý thức gồm 3 yếu tố cơ bản nhất là tri thức, tình cảm và ý chí, trong đó, tri thức là nhân tố cơ bản, cốt lõi nhất. Theo chiều sâu của thế giới nội tâm con người, ý thức bao gồm tự ý thức, tiềm thức và vô thức.
Phản ánh và sáng tạo là hai thuộc tính không tách rời trong bản chất của ý thức. Sự phản ánh của con người là phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thông qua thực tiễn. Khác với chủ nghĩa duy vật cũ, xem xét thế giới vật chất như là những sự vật, hiện tượng cảm tính, chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét thế giới vật chất là thế giới của con người hoạt động thực tiễn. Chính thực tiễn là hoạt động vật chất có tính cải biến thế giới của con người - là cơ sở để hình thành, phát triển ý thức, trong đó ý thức của con người vừa phản ánh, vừa sáng tạo, phản ánh để sáng tạo và sáng tạo trong phản ánh. d) Vật chất quyết định đến sự vận động và phát triền của ý thức Như chúng ta thấy mọi sự tồn tại và phát triển của ý thức thì đều gắn liền với quá trình biến đổi của vật chất; vật chất thay đổi thì sớm hay muộn thì ý thức cũng phải thay đổi theo. 1.3.2 Ý thức có tính độc lập tương đối và tác động trở lại vật chất Điều này được thể hiện ở những khía cạnh sau:
- Thứ nhất, tính độc lập tương đối của ý thức : Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào trong đầu óc con người, do vật chát sinh ra, nhưng khi đã ra đời thì ý thức có “đời sống” riêng, có quy luật vận động, phát triển riêng. Ý thức có thể thay đổi nhanh, chậm, đi song hành so với hiện thực, nhưng nhìn chung nó thường thay đổi chậm so với sự biến đổi của thế giới vật chất.
- Thứ hai, sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con người : Nhờ họat động thực tiễn, ý thức có thể làm biến đổi những đỉều kiện, hoàn cảnh vật chất, thậm chí còn tạo ra “thiên nhiên thứ hai” phục vụ cho cuộc sống của con người. Con người dựa trên nhũng tri thức về thế giới khách quan, hiểu biết những quy luật khách quan, từ đó đề ra mục tiêu, phương hướng, bỉện pháp và ý chí quyết tâm để thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định. Đặc biệt là ý thức tiến bộ, cách mạng một khi thâm nhập vào quần chúng nhân dân - lực lượng vật chất xã hội, thì có vai trò rất to lớn. “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý
luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”.
- Thứ ba, vai trò của ý thức : Thể hiện qua việc chỉ đạo hoạt động, hành động của con người; nó có thể quyết định làm cho hoạt động của con người đúng hay sai, thành công hay thất bại. Khi phản ánh đúng hiện thực, ỷ thức có thể dự báo, tiên đoán một cách chính xác cho hiện thực, có thể hình thành nên nhũng lý luận định hướng đúng đắn và được đưa vào quần chúng sẽ góp phần động viên, cổ vũ, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo, từ đó sức mạnh vật chất được nhân lên gấp bội. Ngược lại, ý thức có thể tác động tiêu cực khi nó phản ánh sai lạc, xuyên tạc hiện thực.
- Thứ tư, xã hội càng phát triển thì vai trò của ý thức càng to lớn , nhất là trong thời đại thông tin, kinh tế tri thức, thời đại của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, khi mà tri thức khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, vai trò của tri thức khoa học, tư tưởng chính trị, nhân văn là hết sức quan trọng. Tính năng động, sáng tạo của ý thức mặc dù rất to lớn, nhưng nó không thể vượt quá tính quy định của những tiền đề vật chất đã xác định, phải dựa vào các điều kiện khách quan và năng lực chủ quan của các chủ thể hoạt động. 2. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN Trên cơ sở quan điểm mối quan hệ biện chứng giữa vật chất với ý thức, chủ nghĩa duy vật biện chứng đã xây dựng nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, chung nhất đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người. Nguyên tắc đó là: Tất cả các hoạt động nhận thức và thực tiễn phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan. Xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng khách quan là xuất phát và có thái độ tôn trọng đối với hiện thực khách quan. Về căn bản, con người phải tôn trọng, nhận thức và hành động theo quy luật, cần tôn trọng vai trò quyết định của đời sống vật chất đối với đời sống tinh thần của con người, xã hội. Để thực hiện được, việc này đòi hỏi trong suy nghĩ và hành động, con người phải bắt nguồn từ hiện thực khách quan để định rõ mục đích, đưa ra đường lối chiến lược, chủ trương,
viên mà thay vào đó nên suy nghĩ những ý tưởng mới của riêng mình. Ví dụ như những buổi họp nhóm hay những buổi thảo luận kỹ năng.
- Thứ ba, cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như bệnh bảo thủ trì trệ. Cụ thể là cần phải tiếp thu có chọn lọc những kiến thức mới, việc hôm nay không nên để ngày mai, không chủ quan trước mọi tình huống, phải biết lắng nghe và tiếp thu sự góp ý của người khác. Ví dụ xong một bài thuyết trình phải là lại lắng nghe ý kiến chỉnh sửa của cả lớp và giảng viên hay khi làm bài tập nhóm cần sáng tạo, đột phá cải tiến cái cũ nhưng không nên quá cầu toàn. Khi đăng ký học phần không nên đăng ký quá nhiều tránh việc không kham nổi.
- Thứ tư, khi giải thích các hiện tượng xã hội cần tính đến các điều kiện vật chất lẫn yêu tố tinh thần, điều kiện khách quan lẫn yếu tố khách quan. Ví dụ, đối với việc đăng ký học phần, sinh viên cần phải tính đến năng lực học tập của bản thân, điều kiện tài chính của gia đình, cân nhắc quý thời gian không nên đăng ký học phần một cách lan man với mục đích tốt nghiệp sớm tránh trường hợp không theo kịp dẫn đến hao phí tiền bạc sức lực mà kết quả lại không như ý muốn.
KẾT LUẬN
Thông qua việc nghiên cứu, phân tích quan niệm duy vật biện chứng về mối liên hệ giữa vật chất và ý thức, từ đó xây dựng ý nghĩa phương pháp luận chung và liên hệ so sánh với thực tế, ta thấy thế giới thực chất là vật chất, vật chất là tồn tại khách quan có trước và quyết định ý thức, còn ý nghĩa là cái có sau và là sự phản ánh của vật chất, cũng là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Trong hoạt động thực tiễn, nhân tố vật chất là cơ sở để xác định nhân tố cá nhân các yếu tố tinh thần chỉ có thể hoạt động nếu chúng mang lại sự thống nhất và gắn kết với các yếu tố vật chất. Vì vậy, để phát huy hiệu quả của hoạt động học tập đối với phải xuất phát từ thực tế khách quan, phải suy nghĩ đúng thế giới khách quan không thêm không bớt đối với tri thức áp dụng vào đời sống thực sống cũng như trải nghiệm để hoạt động học tập trở nên dễ dàng, gần gũi góp phần học tập vì sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.