Docsity
Docsity

Prepare for your exams
Prepare for your exams

Study with the several resources on Docsity


Earn points to download
Earn points to download

Earn points by helping other students or get them with a premium plan


Guidelines and tips
Guidelines and tips

THAM KHẢO TIỂU LUẬN KTCT, Study Guides, Projects, Research of Philosophy

Văn bản tham khảo bài tiểu luận KTCT

Typology: Study Guides, Projects, Research

2022/2023

Uploaded on 09/14/2024

vu-thao-hien
vu-thao-hien 🇻🇳

2 documents

1 / 22

Toggle sidebar

This page cannot be seen from the preview

Don't miss anything!

bg1
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN
MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI: LÝ THUYẾT TIỀN LƯƠNG CỦA C.MÁC VÀ VẬN
DỤNG VÀO THỰC TIỄN VIỆT NAM
Giảng viên hướng dẫn: Th.s Hoàng Văn Vinh
pf3
pf4
pf5
pf8
pf9
pfa
pfd
pfe
pff
pf12
pf13
pf14
pf15
pf16

Partial preview of the text

Download THAM KHẢO TIỂU LUẬN KTCT and more Study Guides, Projects, Research Philosophy in PDF only on Docsity!

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN

MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ

ĐỀ TÀI: LÝ THUYẾT TIỀN LƯƠNG CỦA C.MÁC VÀ VẬN

DỤNG VÀO THỰC TIỄN VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn: Th.s Hoàng Văn Vinh

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO TIỀN LƯƠNG, CẢI THIỆN

ĐỜI SỐNG CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM........................................ 15

KẾT LUẬN........................................................................................................ 17

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................ 18

LỜI MỞ ĐẦU

Lý luận về tiền lương đã được các nhà kinh tế nghiên cứu từ rất lâu, và William Petty là người đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho lý thuyết "quy luật sắt về tiền lương". Lý thuyết mức lương tối thiểu phản ánh trình độ phát triển ban đầu của chủ nghĩa tư bản. Lúc này, sản xuất chưa phát triển, để buộc công nhân phải làm việc, giai cấp tư sản dựa vào Nhà nước để duy trì mức lương thấp. Tuy nhiên lý luận này giúp ta thấy rõ, công nhân chỉ nhận được nhữ ng tư liệu sinh hoạt tối thiểu từ những sản phẩm họ tạo ra. Phần còn lại đã bị nhà tư bản chiếm đoạt. Đó là cơ sở cho việc phân tích sự bóc lột. Lý luận về tiền lương của Các Mác là sự tiếp tục phát triển lý luận về tiền lương của các nhà kinh tế cổ điển trước đó. Lý luận tiền lương của Mác vạch rõ: bản chất của tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản đã bị che đậy – tiền lương là giá cả của lao động, bác bỏ quan niệm của các nhà kinh tế tư bản trước đó (D.Ricardo). Những luận điểm của Các Mác về tiền lương vẫn còn giá trị đến ngày nay. Mặc dù ở nước ta chính sách tiền lương đã được cải cách. Tuy nhiên, nhiều vấn đề cốt lõi vẫn chưa được giải quyết một cách thoả đáng. Việc hiểu và vận dụng đúng những nguyên lý về tiền lương của Các Mác trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay có ý nghĩa rất lớn. Cải cách chính sách tiền lương sẽ ảnh hưởng như thế nào đến lợi ích của người lao động, và nên tiến hành cải cách như thế nào để đảm bảo được lợi ích người lao động và lợi ích của toàn quốc gia. Đây là vấn đề đã thu hút được sự quan tâm của đông đảo người lao động và chuyên gia nghiên cứu. Xuất phát từ ý nghĩa lý luận và thực tiễn nêu trên mà người viết lựa chọn đề tài này nhằm hiểu rõ hơn về hệ thống chính sách tiền lương ở Việt Nam, nhằm đưa ra các kiến nghị hoàn thiện hệ thống chính sách tiền lương ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

như là giá trị hay giá cả của lao động. Sở dĩ biểu hiện bề ngoài của tiền lương đã che dấu bản chất của nó là do những nguyên nhân sau: Một là , việc mua bán sức lao động là mua bán chịu. Hơn nữa, đặc điểm của hàng hoá - sức lao động không bao giời tách khỏi người bán, nó chỉ nhận được giá cả khi đã cung cấp giá trị sử dụng cho người mua, tức là lao động cho nhà tư bản, do đó nhìn bề ngoài chỉ thấy nhà tư bản trả giá trị cho lao động. Hai là , đối với công nhân, toàn bộ lao động trong cả ngày là phương tiện để có tiền sinh sống, do đó, bản thân công nhân cũng tưởng rằng mình bán lao động. Còn đối với nhà tư bản việc bỏ tìên ra để có lao động, nên cũng nghĩ rằng cái mà họ mua là lao động. Ba là , do cách thức trả lương. Số lượng của tiền lương phụ thuộc vào thời gian lao động hoặc sản phẩm sản xuất ra, điều đó khiến người ta lầm tưởng rằng tiền lương là giá cả lao động. Tiền lương che đậy mọi dấu vết của sự phân chia ngày lao động thành thời gian lao động tất yếu và thời gian lao động thặng dư, thành lao động được trả công và lao động không được trả công, do đó tiền lương che đậy bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. 1.2. Các chức năng cơ bản của tiền lương 1.2.1. Chức năng thước đo giá trị Tiền lương là sự thể hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, được biểu hiện ra bên ngoài như là giá cả của sức lao động. Vì vậy tiền lương chính là thuớc đo giá trị sức lao động, được biểu hiện như giá trị lao động cụ thể của việc làm được trả công. Nói cách khác, giá trị của việc làm được phản ánh thông qua tiền lương. Nếu việc làm có giá trị càng cao thì mức lương càng lớn. 1.2.2. Duy trì và phát triển sức lao động Theo Mác tiền lương là biểu hiện giá trị sức lao động, đó là giá trị của

những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì cuộc sống của người có sức lao động, theo điều kiện kinh tế, xã hội và trình độ văn minh của mỗi nước. Giá trị sức lao động bao hàm cả yếu tố lịch sử, vật chất và tinh thần. Ngoài ra, để duy trì và phát triển sức lao động thì người lao động còn phải sinh con (như sức lao động tiềm tàng), phải nuôi dưỡng con, cho nên những tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất ra sức lao động phải gồm có cả những tư liệu sinh hoạt cho con cái học. Theo họ, chức năng cơ bản của tiền lương còn là nhằm duy trì và phát triển được sức lao động. Giá trị sức lao động là điểm xuất phát trong mọi bài tính của sản xuất xã hội nói chung và của người sử dụng lao động nói riêng. Giá trị sức lao động mang tính khách quan, được quy định và điều tiết không theo ý muốn của một các nhân nào, dù là người làm công hay người sử dụng lao động. Nó là kết quả của sự mặc cả trên thị trường lao động giữa người có sức lao động “bán” và người sử dụng sức lao động “mua”. 1.2.3. Kích thích lao động và phát triển nguồn nhân lực Tiền lương là bộ phận thu nhập chính đáng của người lao động nhằm thoả mãn phần lớn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của người lao động. Do vậy, các mức tiền lương là các đòn bẩy kinh tế rất quan trọng để định hướng sự quan tâm và động cơ trong lao động của người lao động. Khi độ lớn của tiền lương phụ thuộc vào hiệu quả sản xuất của công ty nói chung và cá nhân người lao động nói riêng thì họ sẽ quan tâm đến việc không ngừng nâng cao năng suất và chất lượng công việc 1.2.4. Thúc đẩy sự phân công lao động xã hội phát triển Nâng cao hiệu quả lao động, năng suất lao động suy cho cùng là nguồn gốc để tăng thu nhập, tăng khả năng thoả mãn các nhu cầu của người lao động. Khác với thị trường hàng hoá bình thường, cầu về lao động không phải là cầu cho bản thân nó, mà là cầu dẫn xuất, tức là phụ thuộc vào khả năng tiêu thụ của sản phẩm do lao động tạo ra và mức giá cả của hàng hoá này. Tổng mức

lợi cho nhà tư bản khi tình hình thị trường thuận lợi, hàng hoá tiêu thụ dễ dàng, thực hiện lối làm việc thêm giờ, tức là làm việc ngoài số giời quy định của ngày lao động. Còn khi thị trường không thuận lợi buộc phải thu hẹp sản xuất, nhà tư bản sẽ rút ngắn ngày lao động và thực hiện lối trả công theo giờ, do đó hạ thấp tiền lương xuống rất nhiều. Như vậy, công nhân không những bị thiệt thòi khi ngày lao độn bị kéo dài quá độ, mà còn bị thiệt cả khi phải làm việc bớt giờ. 1.3.2. Tiền lương tính theo sản phẩm Tiền lương tính theo sản phẩm là hình thức tiền lương mà số lượng của nó phụ thuộc vào số lượng sản phẩm mà công nhân đã sản xuất ra hoặc số lượng công việc đã hoàn thành trong một thời gian nhất định. Mỗi sản phẩm được trả công theo một đơn giá nhất định gọi là đơn giá tiền công. Đơn giá tiền công là giá trả côgn co mỗi đơn vị sản phẩm đã sản xuất ra theo giá biểu nhất định. Khi quy định đơn giá, người ta lấy tiền lương trung bình của công nhân trong ngày chia cho số lượng sản phẩm mà công nhân sản xuất ra trong 1 ngày bình thường. Do đó, về thực chất, đơn giá tiền lương là tiền lương trả cho một thời gian cần thiết nhất định để sản xuất một sản phẩm. Vì thế, tiền lương tính theo sản phẩm chỉ là hình thức chuyển hoá của tiền lương tính theo thời gian. Hình thức tiền lương theo sản phẩm càng che giấu và xuyên tạc bản chất của tiền lương hơn so với hình thức tiền lương tính theo thời gian. Việc thực hiện hình thức tiền lương tính theo sản phẩm một mặt làm cho nhà tư bản dễ dàng kiểm soát công nhân; một khác đẻ ra sự cạnh tranh giữa công nhân, kích thích công nhân pảhi lao động tích cực nâng cao cường độ lao động, tạo ra nhiều sản phẩm để nhận được tiền công cao hơn. Vì vậy, chế độ tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản thường dẫn đến tình trạng lao động khẩn trương quá mức, làm kiệt sức người lao động. Về mặt lịch sử, tiền lương tình theo thời gian được áp dụng rộng rãi trong giai đoạn đầu phát triển của chủ nghĩa tư bản, còn ở giai đoạn sau thì tiền

lương tính theo sản phẩm được áp dụng rộng rãi hơn. Hiện nay, hình thức tiền lương tính theo thời gian ngày càng được mở rộng. 1.4. Tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế. Xu hướng vận động của tiền lương trong chủ nghĩa tư bản 1.4.1. Tiền lương danh nghĩa Tiền lương danh nghĩa là tổng số tiền mà người công nhân nhận được do bán sức lao động của mình cho nhà tư bản. Nó là giá cả sức lao động. Nó tăng giảm theo sự biến động trong quan hệ cung – cầu về hàng hoá sức lao động trên thị trường. Đối với người công nhân, điều quan trọng không chỉ ở tổng số tiền nhận được dưới hình thức tiền lương mà còn ở chỗ có thể mua được gì bằng tiền lương đó, điều đó phụ thuộc vào giá cả vật phẩm tiêu dùng và dịch vụ. 1.4.2. Tiền lương thực tế Tiền lương thực tế là số lượng hàng hoá và dịch vụ mà công nhân có thể thu được bằng tiền lương danh nghĩa. Rõ ràng, nếu điều kiện khác không thay đổi, tiền lương thực tế phụ thuộc theo tỷ lệ thuận vào đại lượng tiền lương danh nghĩa và phụ thuộc theo tỷ lệ nghịch với mức giá cả vật phẩm tiêu dùng và dịch vụ. 1.4.3. Xu hướng vận động của tiền lương trong chủ nghĩa tư bản Nghiên cứu sự vận động của tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản, C.Mác vạch ra rằng, xu hướng chung có tính quy luật của sự vận động của tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản là: trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, tiền công danh nghĩa có xu hướng tăng lên, nhưng mức tăng của nó nhiều khi không theo kịp với mức tăng giá cả tư liệu tiêu dùng và dịch vụ. Khi đó, tiền công thực tế có xu hướng hạ thấp. Chừng nào mà tiền lương còn là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, thì sự vận động của nó gắn liền với sự biến đổi của giá trị sức lao động. Lượng giá trị của nó do ảnh hưởng của một loạt nhân tố quyết định. Một nhân tố tác động làm tăng lượng giá trị sức lao động, một nhân tố khác tác

cho phép nhà tư bản thấy rằng, hàng hoá - sức lao động buộc phải bán trong mọi điều kiện, vì công nhân không có cách nào khác để sinh sống. Mức lương trung bình bị giảm xuống còn do hàng triệu người không có việc làm đầy đủ trong năm, nói chung họ không nhận được tiền lương.

    • Lạm phát làm giảm sức mua của đồng tiền cũng là nhân tố làm giảm tiền lương trong điều kiện hiện nay.
  • Mức lương của các nước có sự khác nhau. Điều đó được quyết định bởi nhân tố tự nhiên, truyền thống văn hoá và những nhân tố khác, trong đó nhân tố đấu tranh của giai cấp công nhân đóng vai trò quan trọng. Trong các nước tư bản phát triển, mức lương thường cao hơn ở các nước đang phát triển. Nhưng ở đó có sự bóc lột cao hơn, vì kỹ thuật và phương pháp tổ chức lao động hiện đại được áp dụng. Giá cả hàng hoá - sức lao động thấp là nhân tố quan trọng nhất thu hút tư bản độc quyền vào các nước đang phát triển.
  • Trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản hiện đại, tiền lương theo thời gian với những hình thức đa dạng chiếm ưu thế. Trong việc tìm kiếm những phương pháp mới nhằm bóc lột lao động làm thuê, giai cấp tư sản buộc phải thừa nhận vai trò con người tron quá trình sản xuất, và điều chỉnh lại việc tổ chức lao động, cũng như kích thích người lao động.
  • Sự bóc lột lao động làm thuê ở các nước tư bản phát triển còn có những hình thức che giấu tinh vi ơn. Khi thiên về sự củng cố “quan hệ con người”, về sự thống trị của các nguyên tắc “công ty là một gia đình”, giai cấp tư sản hiện đại thực hiện mưu toan thuyết phục công nhân rằng lợi ích

của xí nghiệp, lợi ích của tư bản thống nhất với lợi ích của công nhân. Vai trò kích thích của tiền lương được sử dụng vào mục đích đó. Không phải chỉ có thái độ tận tâm với công việc mà sự phục vụ trung thành cho công ty cũng được kích thích bởi đại lượng và hình thức của tiền lương. Điều đó có nghĩa là không chỉ bằng hình thức tiền lương, mà còn bằng tổ chức tiền lương dựa trên cơ sở tâm lý của hoạt động lao động, giai cấp tư sản rất muốn “thủ tiêu” hoặc làm dịu mâu thuẫn giữa tư bản và lao động. Đó là đặc trưng của những liên hiệp độc quyền lớn hiện đại, ở đó các nhà tư bản đã không tiếc tiền chi vào những chi phí nhằm tạo ra “bầu không khí tin cậy” để hình thành ở người công nhân “ý thức người chủ”. Tính mềm dẻo trong sự vận dụng các hình thức khác nhau của tiền lương, việc tính toán những yêu cầu kỹ thuật, tổ chức và tâm lý khi trang bị nơi làm việc đưa đến tăng năng suất lao động và tăng chất lượng sản phẩm, tất cả đều nhằm mục đích tăng giá trị thặng dư. Điều đó có nghĩa là tăng cường bóc lột người lao động.

thiểu này không đủ để người lao động có thế sống được trong một tháng, nhất là ở những thành phố lớn như Hà nội hay Tp. Hồ Chí Minh khi lạm phát ngày càng đầy giá tiêu dùng leo thang chóng mặt. Mức lương tối thiểu không đảm bảo tái sản xuất giản đơn sức lao động của bản thân người lao động. Ở khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh, có nhiều thiệt thòi cho các lao động khi phía nước ngoài sẽ không chấp nhận trả cao so với mức lương tối thiểu mà nhà nước quy định. Về thời gian và mức độ điều chỉnh tiền lương danh nghĩa : Ở nước ta, trong những năm gần đây, tỷ lệ lạm phát khá cao, vì thế, về nguyên tắc, để tiền lương thực tế của người lao động không bị giảm cần phát điều chỉnh tăng mức lương danh nghĩa ít nhất ngang bằng với tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên, trên thực tế, việc điều chỉnh lương chưa được thực hiện kịp, không theo kịp với đà tăng giá. Về hệ số phụ cấp : Tiền lương có một chức năng cực kỳ quan trọng là điều tiết quan hệ cung- cầu về sức lao động trong nền kinh tế thị trường. Hệ số phụ cấp trong chính sách tiền lương ở nước ta hiện nay mới chỉ có loại phụ cấp tham gia điều tiết cung – cầu sức lao động theo vùng là phụ cấp khu vực, phụ cấp thu hút, phụ cấp đắt đỏ. Sự chênh lệch mức lương giữa lao động giản đơn và lao động phức tạp chưa đủ để khuyến khích nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thậm chí còn có tình trạng “ chảy máu chất xám” Về tỷ lệ tiền lương trong thu nhập : Tiền lương chỉ trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự hoạt động tích cực của người lao động khi nó chiếm phần lớn trong thu nhập của họ. Với chính sách tiền lương hiện hànhh, tiền lương của cán bộ công nhân, viên chức hiện nay chỉ chiếm phần nhỏ trong tổng thu nhập của người hưởng lương ( khoảng 30-50%) làm chi tiền lương không phản ánh đúng thang giá trị lao động, ảnh hưởng tới quan hệ tiền lương trên thực tế. Những vấn đề khác : Trong khi tiền lương không đủ sống thì thu nhập ngoài lương lại rất cao và không có giới hạn, không minh bạch cũng không kiểm soát

được. Chính điều này đã tạo điều kiện cho tham nhũng, tiêu cực ngày cảng trở nên nhức nhối. 2.2. Một số nguyên nhân dẫn đến hạn chế của thực trạng tiền công của người lao động Việt Nam hiện nay Thứ nhất , tiền lương là vấn đề không dễ, chuyển tiếp qua nhiều giai đoạn bổ sung, sửa đổi chắp vá càng thêm phức tạp, khó hiểu, đỏi hỏi từ cơ quan nghiên cứu, soạn thảo đến cấp quyết định cần có kiến thức, hiểu biết sâu sắc, có hệ thống, toàn diện, nhưng trong thực tế quá trình tổ chức nghiên cứu làm phấn tán, không thống nhất, trao đổi, bàn luận chưa đầy đủ, thiếu tường tận và chưa đi đến cùng các vấn đề phức tạp. Thứ hai , một trong số các nguyên nhân là chúng ta lúng túng, chưa tìm ra cơ chế phù hợp, hiệu quả để tạo ra nguồn tài chính thực hiện cải cách tiền lương và các chính sách liên quan, chủ yếu vẫn trông chờ vào tăng thu ngân sách nhà nước trong khi khả năng từ nền kinh tế còn hạn hẹp. Cơ chế tạo nguồn lực để thực hiện cải cách tiền lương đã đề ra cách đay hơn 20 năm, cơ bản không có nhiều thay đổi và không tạo chuyển biến lớn. Cơ chế đặt ra chung chung, thiếu căn cứ và dữ liệu cần thiết, không có phương hướng thực thi cụ thể, không giải quyết được vấn đề từ gốc, nặng về khẩu hiệu mục tiêu mà thiếu đi những hành động cụ thể, thiết thực trong triển khai thực hiện. Thứ ba , thời gian trải nghiệm của các lần cải cách tiền lương là không ít nhưng quyết tâm chính trị chưa thật sự cao để xây dựng, thực hiện nghiêm ngặt, đồng bộ cả chiều rộng lẫn chiều sâu, ngại thay đổi, ngại đụng chạm mặc dù thấy rõ nội dụng cải cách là cần thiết. Quá trình thực hiện thiếu sự chỉ đạo tập trung, chưa tuân thủ đầy đủ các nội dung đề án đã được thông qua, buông lỏng quản lý, để xảy ra những cách làm xé lẻ, mạnh ngành nào ngành đó làm, phá vỡ quan hệ tiền lương chung. Điều đó dẫn tới chính sách tiền lương và các chính sách cố liên quan ngày càng chắp vá, bất hợp lý.

Trong thời gian dài để ổn định, nâng cao đời sống người lao động bên cạnh các biện pháp tăng tiền công thực tế trên, cần thực hiện các biện pháp tích cực khác có giá trị lâu dài như phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội…bởi khi sản xuất được hàng nhiều thì tiền công của người lao động được nhận sẽ được cải thiện, đáp ứng nhu cầu cuộc sống của họ, còn khi năng suất lao động xã hội tăng thì thời gian lao động xã hội cần thiết giảm đi và giá trị hàng hóa cũng giảm xuống phù hợp với mức tiêu dùng của người lao động hơn.

KẾT LUẬN

Tiền lương luôn là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng trong xã hội bởi sự quan trọng và cần thiết của nó với sự tồn tại của người lao động. Chính vì vậy, mọi người cần có nhận thức đúng đắn về tiền lương cũng như những nỗ lực cải cách về chính sách tiền lương của nhà nước. Trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu, bài tiểu luận này đã giải quyết các vấn đề: Tổng quan chung về lý thuyết tiền lương của C.Mác; Chỉ ra thực trạng tiền lương ở Việt Nam hiện nay và nêu lên các nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, tồn tại bất cập trong các chính sách tiền lương; Đề xuất giải pháp nâng cao tiền lương và mức sống của người lao động. Bằng việc sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, bài tiểu luận mang lại một cái nhìn khá tổng quát về lý thuyết tiền lương của C.Mác cũng như thực tiễn thực hiện lý thuyết ở Việt Nam. Đồng thời với những phương hướng đề xuất hi vọng sẽ có đóng góp hữu ích trong việc hoàn thiện cải cách tiền lương, mang lại mức sống cao hơn cho người lao động.